Chuyển đến nội dung chính

“Nan đắc hồ đồ”: Cái “hồ đồ” của một con người đại nghĩa

 “Nan đắc hồ đồ”: Cái “hồ đồ” của một con người đại nghĩa

“Nan đắc hồ đồ” là một câu danh ngôn khá nổi tiếng của Trịnh Bản Kiều, dịch nghĩa bề mặt là muốn hồ đồ thật khó. Ngày nay trong cuộc sống, người ta thường cho rằng đôi lúc mình phải giả hồ đồ, phải “giả ngu”, để tránh tai bay vạ gió, để được sống yên ổn. Đó cũng là một cách nghĩ. Nhưng bốn chữ “Nan đắc hồ đồ” này được Trịnh Bản Kiều viết ra trong lúc ông đang phải đứng giữa nhân nghĩa và danh vọng, nó thể hiện khí tiết cao thượng hiếm có của một người làm quan, mang trên vai sinh mệnh của dân chúng…

Trịnh Bản Kiều là thư hoạ gia nổi tiếng đời Thanh, thiên tư thông minh lại đa tài đa nghệ, nhưng con đường công danh lại gập ghềnh không thuận lợi. Ông làm tiến sỹ dưới thời vua Càn Long, là một vị quan thanh chính liêm khiết, không sợ quyền thế, hết lòng vì dân. Ông được mệnh danh là “Tam tuyệt”: thơ, họa, và thư pháp nổi tiếng một đời.

Trịnh Bản Kiều từng làm Huyện lệnh huyện Phạm và huyện Duy ở Sơn Đông hơn 10 năm. Để không làm phiền nhiễu dân chúng, lúc làm quan ông không phô trương hình thức, thể hiện quyền uy, thường chỉ khăn gói giản dị lúc đi xa. Thậm chí có khi ông mặc áo vải giày cỏ đi thăm hỏi trăm họ.

Gặp người nghèo khổ cần được cứu giúp Trịnh Bản Kiều luôn dốc sức tương trợ. Tiến sỹ Hàn Mộng Chu lúc đầu túng quẫn tuyệt vọng, đêm khuya một mình đọc sách trong túp lều tranh thì Trịnh Bản Kiều phát hiện và vô cùng thương xót, bèn dùng chính bổng lộc của mình để tài trợ ông đi thi, kết quả ông ta thi đỗ tiến sỹ. Đối với những đứa trẻ mồ côi, Trịnh Bản Kiều càng dốc sức giúp đỡ. Trẻ con trong huyện gặp hôm trời mưa không về nhà được, Trịnh Bản Kiều sai người mang cơm và giày dép tới cho.

Dù là với nô bộc, Trịnh Bản Kiều cũng đối đãi không khác biệt gì. Vì lo rằng họ không dám nhận, ông còn đem khế ước bán thân giữa gia đình mình và người hầu âm thầm đốt đi, đồng thời thường xuyên giáo dục con cái và người trong nhà không được đay nghiến nô bộc. Có thể thấy được ông trung hậu thiện lương, một lòng thương yêu dân chúng như thế nào.

Có một năm huyện Duy gặp phải thiên tai, đến nông nỗi “Giết thú nuôi ăn thịt, thú hết người cũng chết” (sách “Tư quy hành”). Trong lúc dân chúng đang gặp nạn lớn, khâm sai của nhà vua bất kể dân chúng khổ sở sống chết ra sao vẫn không mở kho phát chẩn, mà lại còn đòi hỏi thư họa của Trịnh Bản Kiều.

Thấy người dân đã đến nông nỗi “10 ngày bán một đứa trẻ, 5 ngày bán một phụ nữ” (theo sách “Đào hoang hành”), Trịnh Bản Kiều đã lấy hết bổng lộc bản thân, đồng thời mở cửa kho phát chẩn cứu tế cho nạn dân. Thuộc hạ khuyên ông không nên tự ý quyết định để tránh bị triều đình kết tội, nhưng Trịnh Bản Kiều cho rằng tính mạng của người dân đang trong cơn nước sôi lửa bỏng, nếu vì cứu dân mà bị trách tội thì ông sẵn sàng một mình đón nhận. Ông còn khắc một con dấu để bày tỏ lòng mình “Hận không thể lấp đầy nợ nần và đói khát ngập trời”.

“Nan đắc hồ đồ” chính là tâm ý của Trịnh Bản Kiều. Ông biết rằng mở kho phát chẩn sẽ bị triều đình kết tội, nhưng vẫn vì nghĩa không chùn, giả vờ “hồ đồ” để có thể cứu được nạn dân. Chính vì thế, ông mới chú thích cho bốn chữ “Nan đắc hồ đồ” rằng: “Thông minh khó, hồ đồ khó, từ thông minh chuyển sang hồ đồ càng khó, buông tay ra, lùi một bước, lòng yên ổn, sau này không mong sự đền đáp”.

Trịnh Bản Kiều vì nỗ lực cứu giúp nhân dân mà bị tham quan căm ghét, cuối cùng ông bị vu cáo và cách chức. Lúc ông rời nhiệm sở, dân chúng tranh nhau tới, thắp hương bày rượu đưa tiễn ông đến 10 dặm trường đình. Ông chẳng có xe ngựa và tùy tùng, chỉ thuê 3 con lừa, một con để mình cưỡi, một con chở sách vở và cây đàn, một con cho người nô bộc cưỡi. Đúng là một vị quan “Lưỡng tụ thanh phong”.

Sau khi Trịnh Bản Kiều trở lại Dương Châu, ông mưu sinh bằng nghề bán tranh vẽ, chuyên chú vào nghệ thuật sáng tác thơ, họa và thư pháp. Trịnh Bản Kiều làm quan thì chú trọng Đức hạnh và tiết tháo, đưa tinh thần đó dung hội vào trong các tác phẩm của mình. Ông có tài nghệ nổi bật nhất là vẽ trúc, lan, đá, trong đó vẽ trúc là sở trường số một. Bởi trúc tượng trưng cho sự thanh cao và chính trực, lan tượng trưng cho tính cách không cuốn theo chiều gió, đạm bạc nhưng có chí khí. Còn đá biểu tượng cho sự kiên cường vững chắc. Bởi vì các tác phẩm thư họa của ông không chỉ thể hiện kỹ thuật và tài năng mà còn ẩn chứa đạo lý tôn kính mỹ đức và đạo lý làm người từ cổ chí kim, cho nên tác phẩm của ông lưu danh hậu thế, và ngày nay mọi người thậm chí còn yêu quý ông hơn.

Đứng trước nhân nghĩa và danh vọng, Trịnh Bản Kiều có thể dũng cảm từ bỏ lợi ích bản thân, chỉ mong làm hết sức mình, không mong được đền đáp. Cái “hồ đồ” của Trịnh Bản Kiều không phải là giả ngu giả điếc, mà chính là cái “hồ đồ” của một nhân cách vĩ đại. Đó chính là hàm nghĩa cao thượng của bốn chữ “Nan đắc hồ đồ”.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Ý nghĩa “Nhất mệnh – Nhì Vận – Tam Phong Thuỷ – Tứ Âm Phúc – Ngũ Tri thức”

  Theo quan niệm của những sách cổ học thuật số Phương Đông xưa có câu: “Nhất mệnh, nhì vận, tam Phong Thuỷ, tứ âm phúc, ngũ tri thức”. Câu này ý nghĩa như thế nào? Nghĩa là số mệnh là yếu tố quyết định toàn cục cuộc đời của một con người, tiếp đến là ảnh hưởng của thời vận, thứ ba là ảnh hưởng của phong thủy. Nói cách khác, số mệnh và sinh ra gặp thời là yếu tố tiền định thuộc tiên thiên; phong thủy là hậu thiên, được quyết định bởi hành vi của đương số và sự điều chỉnh môi trường sinh sống. Ngay từ lúc con người sinh ra đã được trời ban cho một “Số mệnh”, từ trong “mệnh” đó sẽ diễn sinh ra “vận” để chi phối cuộc sống sau này. Mệnh là sinh ra đã có sẵn, không thuộc phạm vi khống chế của bản thân, ví dụ như xuất thân, tướng mạo, cá tính, số lượng anh chị em,…, đó chính là “số mệnh” tiên thiên không thể thay đổi được, nên người xưa bình thản tiếp nhận và chấp nhận sống chung với nó. Căn cứ vào lý luận của Tử Vi Đẩu số, Tử Bình, Bát Tự Hà Lạc,… cuộc đời thực tế của con người là được hình

Cứ để mọi chuyện thuận theo tự nhiên

  Có những thứ ở trên đời nếu thuộc về bạn, thì cuối cùng sẽ là của bạn; ngược lại, thứ không phải của bạn, thì dù có cố tranh giành nó cũng sẽ tự rời xa… Trong tình yêu cũng thế, bạn phải hiểu, thứ bạn yêu không phải đoạn thời gian kia, không phải người ấy khiến bạn nhớ mãi không quên, cũng không phải yêu cái khoảng thời gian đã từng trải qua, bạn yêu chỉ là cái phần non trẻ nhưng vẫn chấp mê bất ngộ của chính mình. Hãy học cách bình thản với đời, thuận theo tự nhiên chính là một loại phúc. Mặc kệ mọi người trên thế giới nói gì, ta đều nhận thức việc làm của bản thân mình mới là đúng đắn Cuộc sống của chúng ta, không phải vì lấy sự ưa thích của người khác mà tồn tại, chúng ta là tự do tự tại, không cần phải đòi hỏi ai yêu thích mình, có thể vui vẻ mà lưng đeo đại địa, mặt hướng trời xanh. Chỉ cần bạn hiểu được điều này, gông xiềng đã bị phá bỏ, bạn có thể tự do mà hít thở. Nếu như đứng trước người mà bạn yêu mến, điều bạn cần làm là bày tỏ lòng mình; nếu bạn kết hôn với một người, bạn

Ai rồi cũng sẽ đổi thay, chỉ là nhanh đến mức choáng váng, hoặc là chậm đến mức không nhận ra

  Nếu một ngày nào đó, người mà bạn cho là rất rất quan trọng, chỉ nhìn bạn với ánh mắt vô hồn và im lặng kể cả khi bạn có rất nhiều điều muốn nói. Nếu như trong khoảnh khắc chông chênh đó, bạn cũng chọn lấy cách im lặng. Vậy thì dấu hiệu đầu tiên của sự đổi thay đã xuất hiện. Khi mới bắt đầu, ai cũng đều kinh ngạc cho những điều không dễ dàng thay đổi. Đến khi trưởng thành, có chăng cũng chỉ là quen với việc giấu đi cảm xúc, giấu nhẹm đi những hụt hẫng khi niềm tin lại rơi mất. Và rồi sẽ có một ngày nào đó, ngày của hôm qua gần tựa như cơn mơ, nhạt nhòa. Rồi ai cũng sẽ thay đổi. Cuộc sống đó là một vòng luân chuyển. Ánh sáng bóng tối thay phiên nhau. 4 mùa xuân hạ thu đông cũng lần lượt sẽ thay đổi cho nhau. Vốn dĩ không có cái gì sẽ đứng yên tại một chỗ. Và ngay bản thân ta lớn lên cũng phải chấp nhận rằng trái đất cũng di chuyển vậy thì làm gì có khái niệm mãi mãi. Thứ có thể mãi mãi tồn tại đó chính là kỷ niệm, bởi nó là một phần ký ức của ta chẳng thể xóa nhòa. Một đôi giày, lúc v